Lịch sử nước Phổ (1701 - 1786) Phổ_(quốc_gia)

Vua Friedrich I của Phổ

Vào năm 1701 con trai của Friedrich Wilhelm, Tuyển hầu Friedrich III tự xưng là Vua Friedrich I của Phổ. Để không xúc phạm đến Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh Dân tộc Đức (Heiliges Römisches Reich Deutscher Nationen) Leopold I, vì phần lớn lãnh thổ thuộc Phổ nằm trong Đế quốc La Mã thần thánh dân tộc Đức, Friedrich chỉ xưng là "Đức Vua ở Phổ" (König in Preußen), chứ không phải "Đức Vua của Phổ" (König von Preußen). Dù vậy, Brandenburg vẫn được hiểu là một phần của Vương quốc Phổ, hơn là một lãnh địa riêng biệt. Như thế là ông xưng làm Quốc vương đúng 170 năm trước khi vua Wilhelm I xưng làm Hoàng đế nước Đức vào năm 1871.[24] Nước Phổ trở nên thịnh vượng dưới thời vua Friedrich I, ông sử dụng cả ngân sách Vương thất để bảo trợ nghệ thuật nước nhà. Không những là một ông vua xa hoa, ông còn gầy dựng một lực lượng Quân đội Phổ bao gồm 40.000 binh sĩ, dù phải đối mặt với những khó khăn do những dịch bệnh và chính sự ăn chơi của ông. Ông cho quân tham chiến với liên quân chống Pháp trong cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, và cuộc chiến này có tầm quan trọng quyết định đối với sự trỗi dậy của truyền thống quân sự của dân tộc Phổ. Không những Quân đội Phổ có được danh tiếng trên trận tiền, những tướng tá Phổ như Vương công Leopold I xứ Anhalt-Dessau (còn gọi là "Ông già Dessauer", một công thần dưới các triều vua Friedrich Wilhelm I và Friedrich II Đại Đế sau này[25]) đã học hỏi được những bí quyết giúp danh tướng John Churchill, Quận công Marlborough thứ nhất đập tan tác Quân đội của vua Louis XVI.[17] Từ năm 1740 cho đến năm 1797, mọi Quân vương nước Phổ đều nhận thức rõ việc mở mang bờ cõi. Trong các di chúc chính trị của mình, vị Tuyển hầu tước vĩ đại cùng với các vua Friedrich I, Friedrich Wihelm I và Friedrich II Đại Đế đều cho rằng đang tiến hành một kế hoạch đồ sộ mang tính lịch sử, và qua đó, những vị vua kế tục phải tiếp nối sự nghiệp đang dang dở của vua cha.[26]

Vào năm 1713, ông qua đời và Triều đình Phổ không còn xa hoa như xưa.[17] Ông được kế vị bởi người con trai, vua Friedrich Wilhelm I (1713-1740), một "ông vua nhà binh" khắc khổ, không màng đến nghệ thuật, sống tằn tiện và thực tế. Ông thuê mướn những Goliath của các nước khác, một Quân đội thường trực khét tiếng hùng mạnh ở châu Âu, một hệ thống hành chính Phổ rất được ca ngợi và cải cách kinh tế. Lúc ông lên nối ngôi báu, lực lượng Quân đội Phổ chỉ có 40.000 binh sĩ, nhưng sau khi ông qua đời vào năm 1740, họ có đến 80.000 quân tinh nhuệ. Ông chi phí tốn kém cho binh cách, vì nhận thấy tầm quan trọng của một Quân đội hùng mạnh đối với đất nước.[27] Ngay từ năm 1709, khi còn ở ngôi Hoàng thái tử, ông tham chiến cùng Quân đội Phổ trong cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, đánh trận Malplaquet.[28] Là vị cha đẻ của bộ máy hành chính Nhà nước Phổ, ông được xem là vị vua vĩ đại nhất của nước Phổ về mặt đối nội.[29] Dù vậy, Quân đội Phổ chỉ xung trận trong một thời gian ngắn trong Đại chiến Bắc Âu, chống quân Thụy Điển. Với tinh thần kỷ luật khắt khe, nhà vua thường mặc chiến bào thay vì những bộ long bào xa xỉ, và đặc điểm này của ông sẽ còn có ở con trai ông là vị vua vinh quang Friedrich II Đại Đế và nhiều vị vua kế tục, cho thấy khi nền quân chủ Phổ của Vương triều Hohenzollern sụp đổ sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.[30]

Quốc vương Friedrich Wilhelm I

Khác với vua Louis XIV của Pháp, ông và vua con Friedrich II Đại Đế đều là những ông vua nhà binh.[31] Vua Friedrich Wilhelm I định cư trên 2 vạn người tị nạn Tân giáo từ vùng Salzburg vào các vùng đất thưa dân ở phía đông Phổ, mở mang nó đến tận bờ tây sông Memel và các vùng khác. Ông cũng giành được vùng đất Tây Pomerania cho đến tận sông Peene từ tay Thụy Điển vào năm 1720. Tuy Quốc vương Friedrich Wilhelm I chỉ xưng làm "Đức Vua ở Phổ", dưới triều đại của ông, người ta thường gọi ông là "Đức Vua của Phổ" hơn hẳn Vương hiệu chính thức của ông.[32] Như vua Phổ Friedrich II Đại Đế đã nói sau này, Vương quốc Phổ của ông đã trở thành "xứ Sparta của phương Bắc".[33] Vào thập niên 1730, Chiến tranh Kế vị Ba Lan bùng nổ giữa liên quân Nga - Áo và Pháp, Quốc vương Friedrich Wilhelm I phái một đạo quân do Hoàng thái tử Friedrich đến liên minh với quân Áo, và cuộc chiến tranh kết thúc với chiến bại của quân Pháp.[34] Và, sau khi vua Friedrich Wilhelm qua đời, một "nhân vật kiệt xuất" lên ngai vàng trên đất Đức vào năm 1740 ("que le grand groppe au ryn sera getté") - đúng như nhà tiên tri Nostradamus người Pháp đã tiên đoán, đó là một vị danh tướng lớn trong lịch sử - vua Friedrich II Đại Đế, được coi là bậc thầy của những chiến thuật và chiến lược lừng danh.[3][35] Khác với vua cha Friedrich Wilhelm I, sau này ông không để yên cho nước Nga và Áo được tự do can thiệp vào tình hình Ba Lan, sau khi ông đưa nước Phổ trở thành một liệt cường lớn mạnh chứ không phải là một nước chư hầu của các quốc gia phong kiến phía Đông.[34]

Là một trong những Quân vương ngự trị lâu dài nhất của châu Âu từ thời Trung Cổ đến thời Napoléon, những chiến tích hiển hách của nhà vua, lòng vô cùng dũng cảm và sáng suốt của ông và việc ông đưa từ "thời kỳ Khai sáng" vào từ điển tiếng Đức - đã khiến cho ông được người ta gọi là "Friedrich Đại đế" - cái nhìn của dân tộc Đức đối với ông giống như dân tộc Nhật Bản với Thiên hoàng Minh Trị và dân tộc Nga với vua Pyotr Đại Đế vậy.[36][37][38][39][40][41] Những chiến thắng huy hoàng của ông cũng khiến ông được tôn vinh, trở thành vị anh hùng của đức tin Kháng Cách.[42] Khi còn là Thái tử ông chỉ đam mê triết học và nghệ thuật. Tuy nhiên, ông thể hiện nhiều tài năng về chính trị, quân sự và ngoại giao, và vẫn tiếp tục xây dựng và mở rộng lực lượng Quân đội Phổ hùng cường và kỷ luật, với một lực lượng Kỵ binh không ai sánh kịp.[43]

Như "Amurath kế tục Amurath", ông đã kế vị vua Louis XIV của Pháp ("Louis Mặt Trời") làm vị Bá vương của toàn cõi châu Âu.[44] Trong cuốn sử sách của mình, nhà văn người Anh là Edward Gibbon có ám chỉ về việc chính vị hiệu của Quốc vương Friedrich II Đại Đế đã đẩy mạnh sự phát triển cường thịnh của Đế chế Phổ trong câu "Một vị Hoàng đế Julianus, một vị Nữ hoàng Semiramis sẽ chính vị hiệu ở phương Bắc...".[45] Trong năm đầu tiên lên ngôi vua, ông thống lĩnh Quân đội Phổ tiến đánh Silesia, vùng đất Hohenzollern tranh chấp với nhà Habsburg cai trị đế quốc Áo. Quân đội Phổ chinh phạt được tỉnh này vô cùng nhanh chống, trở thành hoạt động chính trị quan trọng nhất của vua Friedrich II Đại Đế - đây hoàn toàn là quyết định của ông.[46] Trong hai cuộc chiến tranh Silesia (1740 - 1745), nhà vua liên tiếp giành thắng lợi trong cuộc chinh phạt giành Silesia từ Đế quốc Áo (1742),[47] sau đó còn bảo vệ tỉnh này với những trận đại thắng tại Hohenfriedberg, Soor hay Hennersdorf (1745) trước quân Áo và quân Sachsen.[48] Với chiến thắng lừng lẫy tại Soor, không những Quốc vương Friedrich II Đại Đế có được danh tiếng với tư cách là một vị Lãnh tụ quân sự của châu Âu, mà còn trở thành một vị thống soái bất khả chiến bại.[49] Với những chiến thắng vang dội tại Hohenfriedberg và Soor với chiến thuật "đánh lấn vào sườn" của nhà vua, ông đã che khuất những sai lầm của mình bằng tài năng và lòng dũng cảm của ông. Lực lượng Kỵ binh tinh nhuệ Phổ, do chính ông bỏ công rèn luyện, trở thành lực lượng Kỵ binh hùng mạnh nhất trên lục địa châu Âu, luôn luôn chủ động và táo bạo dưới qưyền những danh tướng kiệt xuất.[50] Nước Phổ trở thành một kình địch hùng mạnh để ngăn cản sự phát triển của nước Áo.[51] Đánh bại quân Áo và đưa nước Phổ lên làm liệt cường tại Đức và châu Âu, ông đã ngăn ngừa việc Vương quốc Pháp trở thành cường quốc bá chủ trên đất Đức.[46][49] Sau đó, ông vẫn tiếp tục quan tâm đến lực lượng Quân đội Phổ, viết sách về nguyên tắc chiến tranh.[52] Trong cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756 - 1763), ông phải chống lại một liên minh gồm cả Áo, Pháp, Nga, Thụy Điển và Sachsen: ông tỏ ra là một thiên tài xuất chúng.[53] Như Nữ hoàng Áo là Maria Theresia nói với một viên Thống chế vào năm 1761, bà quyết định đưa Vương triều Brandenburg trở lại thành một cường quốc hạng hai trong cuộc chiến tranh này,[54] nhưng cuối cùng bà đã thất bại.[55]

Quân đội Phổ của vua Friedrich II Đại Đế bị liên quân Nga - Áo đánh bại thảm hại trong trận Kunersdorf (1759).[56]

Tuy bị liên quân chống Phổ vây từ nhiều phía, với tinh thần vô cùng quyết chí và dũng cảm, ông đánh bại từng nước một trong liên quân, ông cực kỳ năng động và giữ vững vai trò bá chủ của Phổ ở vùng Trung Đức,[57] và đến cuối năm 1761, đã mang lại cho liên quân chống Phổ (vốn được thiết lập nhằm xâm chiếm và chia cắt lãnh thổ của nước Phổ) sự khẳng định rằng: chứng nào vị Quân vương kiệt xuất và các vị tướng lĩnh tài ba vẫn còn chiến đấu thì ông không thể nào bị đánh bại.[58][59][60] Quyết không nhượng bộ tỉnh Silesia,[61] ông chủ động ra tay đánh thắng quân Sachsen tại Pirna (1756), đánh thắng quân Áo tại Lobositz (1756) và Praha (1757), đánh thắng liên quân Pháp - Áo tại Rossbach (1757), đánh thắng quân Áo tại Leuthen (1757) đánh thắng quân Nga tại Zorndorf (1758)), đánh thắng liên quân Nga - Áo tại Liegnitz, giữ vững được kinh đô Berlin,[62] đánh thắng quân Áo tại Torgau (1760) - Burkersdorf (1762) và Schweidnitz vào năm 1762 - năm liên quân chống Phổ kiệt quệ, Quân đội Phổ vẫn chiến đấu anh dũng và kiên cường, do đó giành chiến thắng hoàn toàn.[6][63][64][65] Với chiến thắng vang dội của ông tại Rossbach (1757), lần đầu tiên trong lịch sử, dân tộc Đức đã đánh thắng Pháp một cách vẻ vang.[66] Chiến dịch Rossbach - Leuthen trở thành một trong chiến thắng huy hoàng nhất trong lịch sử.[67] Thực chất, ông không phải là không có sai lầm với tư cách là một vị Lãnh tụ quân sự, ông chỉ thắng 8 trận trong 16 trận đánh mà ông chinh chiến, nhưng về nhiều mặt, ông có lợi thế hơn các kình địch của ông. Ông phải đơn phương độc mã đi chinh chiến, nhưng việc ông không có đồng minh sát cánh để hội kiến cũng là một lợi thế, và bộ máy chiến tranh của nước Phổ rất đơn giản, do bản thân Quốc vương và quan Thượng thư Bộ Ngoại giao (có hiệu lực) chính là Tổng tư lệnh Quân đội Phổ trên chiến trường. Dưới triều đại của vị vua tài năng, dai sức và quyết đoán như thế, Quân đội Phổ không bao giờ phải tiến hành một cuộc tranh cãi phức tạp, như ở nước Áo dưới triều Habsburg.[68] Em trai ông là Vương tử Friedrich Heinrich Ludwig cũng đánh tan tác quân Áo trong trận Freiberg vào năm 1762, ít lâu trước khi Nữ hoàng Áo là Maria Theresia giảng hoà.[69] Nhiều bạn hữu của ông đã hy sinh, làm có những lúc ông đau buồn, nhưng sau đó, vị vua kiên quyết đã hồi phục.[70] Giữa cuộc chiến, có lúc thất bại thảm hại, nhưng ông - cũng như sau những chiến thắng[71] - vẫn bình tĩnh và giữ thế chủ động, dẫn tới những chiến thắng oanh liệt trước những đội quân đông đảo hơn sau này, làm đối phương phải hoảng sợ.[72][73] Một ví dụ cho thấy rõ tài năng của ông trong việc hồi phục sau những chiến bại, giữ cái đầu lạnh và giáng những đòn đau khủng khiếp vào đối phương qua trận Hochkirch (1758): sau thất bại thảm hại, thậm chí con chiến mã của ông bị trúng đạn, nhà vua rút quân về chỗ an toàn, khiến cho đối phương không thể nào truy kích.[68] Cuối cùng, khi cuộc chiến tranh kết thúc, vị Quân vương bất khả chiến bại vẫn thống lĩnh ba quân trên các đỉnh núi tại tỉnh Silesia và tỉnh Sachsen, trong khi liên quân chống Phổ phải thất bại. Theo nhận định của Theodore Ayrauth Dodge, với tư cách là một chiến binh, ông thể hiện rõ ràng: ông vĩ đại hơn vị Hoàng đế lừng danh Napoléon trong thời gian khó khăn.[74] Vị vua quyết đoán và lực lượng Quân đội Phổ hùng cường còn thể hiện sự tàn bạo ác liệt và lạnh lùng qua các cuộc vây hãm Pirna (1756) và Dresden (1760).[75][76] Chính sách giảm giá, cũng như cuộc cướp bóc tàn nhẫn vào xứ Sachsen và xứ Mecklenburg cũng giúp vị vua kiệt xuất Friedrich II Đại Đế giành được thắng lợi.[77]

Chiến thắng của ông tại Leuthen (1757) là một trận đánh kinh điển của chiến thuật "đánh lấn vào sườn" của ông.[78] Thậm chí ông còn đánh vào lãnh thổ Áo vào năm 1758 nhưng không thành công, và tiến hành một cuộc rút quân vô cùng hiển hách.[79] Nước Anh và một số tiểu quốc Đức liên minh với nước Phổ, đánh Pháp và giúp họ đẩy lui quân Pháp ra khỏi đất nước.[80] Kể từ sau thất bại thê thảm tại Rossbach thì quân Pháp chẳng bao giờ dám đối đầu với quân tinh nhuệ Phổ do nhà vua thân chinh thống lĩnh nữa, thay vì đó họ chuyển sau mặt trận phía Tây và luôn luôn bị đạo quân Phổ của Vương công Ferdinand xứ Brunswick đánh tan tác.[57][66] Nhưng Chính phủ Anh xé bỏ liên minh với ông vào các năm 1761-1762, song cùng lúc đó liên minh chống Phổ cũng tan rã, mang lại thắng lợi cho ông.[77][81] Thân chinh thống lĩnh một lực lượng Quân đội hùng hậu,[68] ông thực hiện xuất sắc nhiệm vụ hết sức nặng nề của mình, và lòng dũng cảm, tính trung kiên và tài năng của ông cuối cùng đã đem lại vinh dự cho ông; trong khi đó liên quân chống Phổ đều kiệt quệ cả: sau bảy năm chinh chiến và giữ vững đất nước trước sự tấn công ba cường quốc quân sự Nga, Áo và Pháp, Hiệp định Hubertusburg được ký kết vào năm 1763 với việc nước Áo phải chịu mất tỉnh Silesia, giữ vững nền hòa bình,[60] và giờ đây nước Phổ hoàn toàn là một quốc gia vĩ đại, mang lại chiến bại thảm hại cho liên quân chống Phổ, phá vỡ thế bá chủ của Pháp và Áo ở châu Âu và Đức.[51][58][82] Với cuộc chiến tranh này, Quốc vương Friedrich II Đại Đế, tức Fredericus Rex trở thành một huyền thoại, do ông đã chiến đấu với một liên quân của các nước châu Âu.[83] Với cuộc Chiến tranh Bảy năm, Vương quốc Phổ không những trở thành một cường quốc tiêu biểu của châu Âu, lại còn trở thành một quốc gia hùng mạnh, đóng vai trò thống trị ở miền Bắc Đức và Đế quốc La Mã Thần thánh.[6][10][59] Cùng với Cuộc chiến tranh Kế vị Áo, cuộc Chiến tranh Bảy năm đã đưa nước Phổ trở thành một liệt cường quân sự hùng mạnh nhất trên toàn cõi châu Âu.[84] Vào năm 1763, Quân đội Phổ có 103.000 binh sĩ là người Phổ, 37.000 binh sĩ là người ngoại quốc.[85] Trong văn chương, vị vua - anh hùng, thiên tài quân sự kiệt xuất Friedrich II Đại Đế thường được ví von với những anh hùng Wotan hay Hermann của người Teuton, và cả nhà chinh phạt vĩ đại Cyrus Đại Đế của Đế quốc Ba Tư.[86][87][88]

Muôn tâu Thánh Thượng, chúng thần chiến đấu vì Đức Tin, vì Thánh Thượng và vì Tổ Quốc.
— Một cựu chiến binh nói với vua Friedrich II Đại Đế sau trận thắng tại Liegnitz (1760)[89]
Quân đội Phổ của vua Friedrich II Đại Đế bị quân Áo đánh bại thảm hại trong trận Kolín (1757). Quân đội Phổ của vua Friedrich II Đại Đế đánh cho quân Nga thất bại thảm hại trong trận Zorndorf (1758). Cũng như chiến thắng huy hoàng tại Rossbach (1757), Quân đội Phổ giành chiến thắng oanh liệt tại Zorndorf nhờ vào lực lượng Kỵ binh tinh nhuệ.[90][91]

Một sứ thần người Pháp, cho hay, sau bảy năm chinh chiến, vị thế của nước Phổ nâng cao hơn trước hẳn, họ trở thành minh chủ của không ít tín đồ Tin Lành chống Áo.[92] Dưới trướng của ông cũng có nhiều vị thống soái kiệt xuất như Vương tử Heinrich em trai ông, Hans Karl von Winterfeldt, Kurt Christoph Graf von Schwerin, Friedrich Wilhelm von Seydlitz hay Hans Joachim von Zieten.[84] Quân đội Phổ và muôn dân Phổ cũng rất trung thành, nhiệt huyết với vị vua anh hùng Friedrich II Đại Đế.[63] Ngay từ thời vua Friedrich Wilhelm I, nạn đào ngũ đã bị xóa bỏ đáng kể trong Quân đội Phổ. Sau khi vua Friedrich II Đại Đế đánh tan tác quân Áo trong cuộc chiến tranh Silesia lần thứ nhất (1740 - 1742), trai tráng Phổ, dù có thể chỉ là con trai của một người nông dân nghèo nàn, đều tự hào khi gia nhập lực lượng Quân đội khải hoàn của vị Quân vương vĩ đại. Chủ nghĩa yêu nước đã bắt đầu phát triển ở nước Phổ.[93] Như một người Ngự Lâm quân nói với Quốc vương Friedrich II Đại Đế trong trận thắng huy hoàng tại Leuthen vào năm 1757, thần dân tỉnh Pomerania thực hiện kỷ luật hết mực xuất sắc. Thần dân xứ Mark Brandenburg cũng tương tự. Người nông dân Phổ cho con em họ đi lính, và luôn trung thành và tự hào về vị vua chiến thắng và vĩ đại của họ. Sự trung thành này cũng là vị quy tắc tuân phục của đức tin Tin Lành, vốn đã được áp đặt lên nông dân Bắc Đức trong nhiều thế kỷ. Những chiến binh của vua Friedrich II Đại Đế thường hát thánh ca mà họ nghe được ở Nhà thờ trong làng họ. Sau trận thắng oanh liệt tại Rossbach, trận thắng oanh liệt tại Leuthen và nhiều trận thắng oanh liệt khác, họ thường hát bài thánh ca "Tất cả chúng ta hãy cùng tạ ơn Chúa".[94] Với lòng yêu nước nồng nàn, trong suốt cuộc Chiến tranh, nhân dân Phổ đã vẽ tranh, viết sách, tiểu sử, sách nhỏ, nói về những tài liệu của vị vua đáng kính của họ: "Friedrich Đại Đế" hoặc là "Friedrich Độc đáo". Những chiến thắng của ông luôn được ca ngợi, ví dụ sau trận đánh kinh hoàng tại Zorndorf (1758), thi sĩ Johann Wilhelm Ludwig Gleim có viết nên "Thơ ca ngợi Thần nàng thơ của chiến tranh". Nhà vua gần như trở thành một siêu nhân; và trong những buổi lễ mừng thọ ông, tiếng súng trường tôn vinh ông luôn vang lên.[95] Không những thế, tinh thần yêu nước của nhân dân Phổ còn được thể hiện qua thơ ca ngợi sự hy sinh anh dũng vì Tổ quốc của nhà thơ Christian Ewald von Kleist, một viên Sĩ quan Quân đội Phổ bị thương nặng và hy sinh sau trận đánh ác liệt tại Kunersdorf (1759).[96] Ông coi sự hy sinh là cái chết huy hoàng, là cái chết mà mọi thế hệ phải quý trọng.[97] Bản thân nhà vua cũng thể hiện chủ nghĩa anh hùng qua những vầng thơ của ông giữa lúc bị hầu hết toàn bộ châu Âu vây hãm vào năm 1757.[22]

Những chiến bại và chiến thắng của nhà vua nước Phổ trong cuộc Chiến tranh Bảy năm đã mang lại cho ông niềm mến mộ cuồng nhiệt của thần dân, không những đối với ý chí quyết đấu của ông, mà còn đối với cá nhân của ông Theo một Sĩ quan Quân đội Phổ là Johann Wilhelm Archenholtz - đã tham chiến trong bảy năm chinh chiến tàn khốc - trong những năm tháng khốc liệt của cuộc Chiến tranh này, thần dân nước Phổ luôn cùng nhà vua chịu thương chịu khó, và "có phần trong danh tiếng của những chiến công hiển hách của ông". Mọi thần dân thuộc mọi đẳng cấp ở tỉnh Pomerania đã giúp đỡ nhà vua xây dựng một đội quân gồm 5.000 binh sĩ. Các Thánh đường đóng vai trò quan trọng trong việc reo rắc lòng trung quân ái quốc, ca ngợi những chiến công hiển hách của nhà vua, và xem Thiên Chúa cao sao đã phù hộ họ qua việc ban cho họ vua Friedrich II Đại Đế. Một hôm, nhà vua xuất quân thắng trận và một tăng lữ vui sướng tuyên bố rằng, Thiên Chúa đã đưa nước Phổ trở thành vùng đất mạnh hơn cả trong tất cả các vùng đất, và chọn muôn dân Phổ là "thần dân chính yếu của Ngài", và do đó "chúng ta có thể đi trong ánh hào quang của những thần dân được Thiên Chúa lựa chọn".[96] Chiến thắng của nước Phổ trong cuộc Chiến tranh Bảy năm cho thấy sự gắn bó chặt chẽ giữa nhà vua và toàn dân luôn mang lại kết quả vô cùng tốt đẹp, và, với vua Friedrich II Đại Đế trở thành vị anh hùng dân tộc Đức, nhân dân Đức lại được hiểu về sự phi thường của khí phách anh hùng.[98][99]

Lực lượng Hải quân Phổ của dân biển Pomerania đã bảo vệ đất nước chống quân Thụy Điển.[100] Do họ không mạnh bằng Hải quân Thụy Điển, nên bị đánh tan tác vào năm 1759. Tuy nhiên, Hải quân Phổ được tái xây dựng vào năm 1761. Trên bộ, quân Thụy Điển bị một toán Kỵ binh nhẹ Phổ chặn đứng. Quân Thụy Điển chưa hề giao chiến với quân chính quy của vua Phổ, và họ phải làm hòa với ông vào năm 1762.[101]

Vương quốc Phổ cũng được giữ vững trong cuộc chiến tranh Bảy năm tàn khốc là nhờ năm pháo đài lớn: Kolberg, Stettin, Kustrin, GlogauBreslau. Các tướng tá của vua Phổ đánh tan tác liên quân Nga - Thụy Điển vào năm 1758.[57] Chỉ mỗi Kolberg bị rơi vào tay quân Nga vào năm 1761; và sau đó, bốn pháo đài còn lại vẫn luôn gây khó khăn cho quân Nga cho đến khi cuộc chiến tranh kết thúc.[102] Nhà vua đã giữ vững được các thành trì Magdeburg, Kustrin và Stettin chính là nhờ các đẳng cấp tình nguyện trang bị cho các Trung đoàn.[100] Voltaire, một người bạn thân của ông, từng mô tả đất Phổ của Đại đế Friedrich II: "...buổi sáng Phổ còn là Spartas, buổi chiều Phổ đã là Athena". Từ sau những cuộc chiến tranh đó, nền chính trị Phổ mang tính "bắt cá hai tay" cho tới tận năm 1866. Chiếm được Silesia, vùng đất đai màu mỡ với nhiều thành phố công nghiệp, nước Phổ trở nên giàu có và đông đúc. Nhờ đánh tan tác quân Áo và tất cả các kẻ thù trên trận tiền mà nước Phổ vươn lên thành quốc gia hùng mạnh nhất của vùng Trung Âu, giữ một vai trò quan trọng trong bản đồ Âu châu, với một đội quân khổng lồ[80].[103][104] Chiến tranh Silesia cũng khởi đầu hơn một thế kỷ kình địch và xung đột giữa Phổ với Áo với tư cách là hai quốc gia hùng mạnh nhất của đế quốc La Mã thần thánh dân tộc Đức (dù rằng lãnh thổ cả hai quốc gia này đều trải rộng ra ngoài biên giới của đế quốc). Vào năm 1744, hạt Đông Frisia rơi vào tay Phổ khi dòng vua Cirksena kết thúc mà không có người kế vị. Theo một nhà sử học danh tiếng của nước Đức vào thế kỷ XIX là Leopold von Ranke, một liệt cường phải giữ vững đất nước trước sức tấn công của một liên quân các nước khác. Nói như vậy, nước Phổ của vua Friedrich II Đại Đế rõ ràng là một liệt cường, ít nhất là về mặt quân sự.[105] Vương quốc Phổ vào thế kỷ XVIII cũng giống như Đế quốc Thụy Điển vào thế kỷ XVII, có nền chính trị phát triển hùng cường nhờ những chiến thắng của nhà vua và một lực lượng hùng binh tướng mạnh, cùng với một bộ máy Chính phủ hữu hiệu.[105] Khi cuộc Chiến tranh Bảy năm tàn khốc chấm dứt, nước Phổ chiến thắng mà không phải nợ nần,[106] và nhà vua còn có 25 triệu thaler để chuẩn bị cho chiến dịch kế tiếp.[107] Tuy ông đã xây dựng những công trình nguy nga tránh lệ chứng tỏ sự thịnh vượng của đất nước, Quốc vương Friedrich II Đại Đế không thích bị nịnh hót. Sau khi Quân đội Phổ ca khúc khải hoàn trở về kinh kỳ sau cuộc Chiến tranh Bảy năm, người thợ chạm lừng danh Daniel Chodowiecki định làm nên một bức hình công phu về cảnh này, và nhà vua khuyên Chodowiecki rằng, không nên làm cho bức hình cầu kỳ quá trớn.[108] Nhà vua cũng không tham gia bất kỳ một buổi lễ ăn mừng nào trong ngày khải hoàn của ông.[109] Sau một cuộc chiến khốc liệt, vị vua chiến thắng cũng trở nên ảm đạm khi trở về kinh đô.[110]

Quốc vương Gustav II Adolf và Quốc vương Friedrich II Đại Đế đều là những vị vua - chiến binh, đều giành những chiến thắng lừng lẫy trước những kẻ thù hùng mạnh. Những chiến thắng của nước Phổ vào thế kỷ XVIII, cũng như những chiến thắng của nước Thụy Điển vào thế kỷ XVII, đã in sâu vào tinh thần của dân tộc họ.[111] Trong suốt triều đại của ông, về mặt ngoại giao, ông thường lợi dụng những bất hòa giữa các cường quốc (ví dụ: Áo, Nga); qua đó, ông phá vỡ liên minh của họ, hoặc khuyến khích họ liên minh với nhau, nhờ đó, Vương quốc Phổ có điều kiện phát triển tương đối thuận lợi.[43][51] Trong 23 năm cuối đời, cho tới 1786, ông khuyến khích việc phát triển nhiều vùng ở Phổ, như là Oderbruch. Vào năm 1764, với sự phò tá đắc lực của Hoàng đệ Heinrich - một nhà ngoại giao tài ba, ông liên minh với nước Nga - đây là Liên minh lâu dài nhất trong lịch sử nền quân chủ Phổ, giúp nước Phổ hùng mạnh thoát khỏi tình trạng cô lập sau cuộc chiến tranh Bảy năm. Với liên minh này, Triều đình Phổ của vua Friedrich II Đại Đế dễ dàng hơn trong việc chi phối các chính sách của Triều đình Nga, và trở thành một trong những quan thầy của Triều đình Ba Lan bù nhìn của nước Nga.[34][112] Đồng thời ông không ngừng nỗ lực tăng cường binh lực và gia tăng ngân khố Phổ để bảo vệ vị thế liệt cường của đất nước,[110] sau khi đánh bại liên minh chống Phổ của Áo - Pháp - Nga trong bảy năm chinh chiến,[113] ông còn tham dự vào Cuộc phân chia Ba Lan lần thứ nhất cùng với Áo và Nga (1772) để giành thêm lãnh thổ; sau chiến tranh, châu Âu lục địa kiệt quệ, và Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva có nguy cơ bị chia cắt bởi hai nước Nga và Áo, nên ông quyết định can thiệp.[114] Ba Lan đang trong tình trạng vô chính phủ, và trong chiến tranh, quân Nga thường đóng quân tại đây, có thể thấy vào năm 1761, Quân đội Phổ phá tan tác kho đạn dược của quân Nga tại Ba Lan.[115]

Với chiến thắng về ngoại giao của nước Đức trước Nga và Áo,[116] ông đạt được thành quả quan trọng hơn cả so với hai nước kia:[117] nhờ đó Công quốc Đông Phổ kết nối với những vùng đất khác của vua Friedrich II Đại Đế, hoàn thiện việc thống nhất các lãnh thổ Phổ và tiếp tục thể hiện vai trò liệt cường của Vương quốc Phổ.[4] Trong cuộc Chiến tranh Bảy năm, vùng Đông Phổ bị Nga chiếm đóng nhưng họ vẫn luôn chống Nga, trung thành với nhà vua; sau ngày nhà vua thắng trận, với cuộc chia cắt Ba Lan này, vùng Đông Phổ được giữ vững, hoàn toàn thoát khỏi mối lo sợ về việc quân Nga sẽ xâm lược trở lại.[116][118] Giờ đây, với tư cách là Bá chủ của vùng Tây Phổ, ông mở được những vùng biên cương chiến lược của đất nước đến sông Wislasông Netze. Nhà vua xây nên kênh đào Bromberg cho đến sông Oder, giúp ông hòa nhập sông Wisla với các đường hàng hải nội địa của các lãnh thổ cũ của ông.[119] Với những cuộc chinh phạt huy hoàng của ông, ông trở thành nhà chinh phạt nổi tiếng nhất của nước Phổ, và là vị thống soái kiệt xuất nhất trong thời đại của ông. Quân đội của ông tuy ít, nhưng nhờ kỷ luật và thiên tài của ông, dẫn đến một loạt chiến thắng oanh liệt trước liên quân chống Phổ.[120][121][122]

Tuy ngự trị thiên hạ nhưng vua Friedrich II Đại Đế vẫn sống đời giản dị, chăm chỉ, do đó ông được lòng dân. Là bạn thân của nhà triết học kiệt xuất Voltaire người Pháp, ông thường đi thị sát, và nói chuyện thân mật với bà con nông dân.[123][124]

Với một lực lượng Quân đội đầy danh tiếng, ảnh hưởng của nền quân sự nước Phổ còn ảnh hưởng đến nước Nga, nước Pháp và nước Áo láng giềng. Vị vua vĩ đại Friedrich II Đại Đế - một trong những nhân vật phi thường của thế giới thời bấy giờ - vô cùng năng nổ trong việc xây dựng lực lượng Quân đội Phổ, ông cũng thường tiến hành duyệt binh, làm cho cả châu Âu phải bái phục. Người ta cũng mong muốn đến viếng thăm kinh thành Berlin, để chứng kiến tận mắt những Trung đoàn quân phục xanh đầy danh tiếng của ông.[125] Cũng trong thời gian đó ông mở cửa biên giới Phổ cho những người chạy trốn khỏi áp bức tôn giáo ở các phần khác của châu Âu, như là người Huguenots. Ông thực hiện chính sách tự do tôn giáo và gia tăng quyền lợi của những người Do Thái trên đất Phổ.[126] Vào năm 1750, ông ra Thánh chỉ phán rằng người Do Thái được quyền làm chủ các Trường học, Giáo đường và Nhà nguyện của họ.[127] Ông thực Vương quốc Phổ trở thành một vùng đất hứa, giống như Hoa Kỳ với dân nhập cư đi tìm tự do trong thế kỉ 19. Trong khi Hoàng đế Áo Joseph II thất bại trong chính sách này, vị vua vĩ đại của nước Phổ đã thành công.[51] Ông cũng xây một Tân Hoàng cung (Neues Palais) vô cùng hoành tráng ở thành phố Potsdam, thể hiện nền quân chủ Phổ sau khi giành chiến thắng trước liên quân chống Phổ trong cuộc Chiến tranh Bảy năm (1763), thể hiện những tham vọng của nhà vua và thực lực của nước Phổ đang trên đà lớn mạnh và phú cường, không thể nào bị cuộc Chiến tranh Bảy năm tàn phá.[125][128][129][130] Hoàng cung lừng lẫy này được xây theo kiến trúc barốc.[131] Với một loạt cung vua phủ chúa, thành phố Potsdam trở thành "Versailles trên đất Đức".[132] Là nhân vật chủ chốt trong nền chính trị châu Âu thời bấy giờ, Quốc vương Friedrich II Đại Đế xưng hiệu "Đức Vua của Phổ" vào năm 1772, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong công cuộc giành độc lập của người Phổ khỏi Đế quốc La Mã Thần thánh.[133]

Chân dung vua Friedrich II Đại đế. Ông giành chiến thắng trong hầu hết các trận đánh trong cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756 - 1763) chống lại phần lớn châu Âu. Là một vị vua thành công của chế độ chuyên chế Khai sáng, ông đưa nước Phổ trở nên thịnh vượng.[123][124]

Vua Friedrich Đại đế thực hành chủ nghĩa Khai sáng chuyên chế, với những thành công vang dội trong việc nội chính. Không những là một thiên tài quân sự, nhà ngoại giao kiệt xuất, ông là vị vua đưa nước Phổ trở nên thịnh vượng, trở thành vị bạo chúa "Khai sáng" hoàn hảo nhất trên lục địa châu Âu trong nửa sau thế kỷ XVIII, được nhân dân yêu mến.[51] Tuy bạo ngược khi đối phó với ngoại bang, nhà vua đối xử hào phóng với muôn dân, trị vì giỏi và làm việc chăm chỉ, vì sự thịnh vượng của toàn dân nước Phổ.[4] Bản thân ông cũng là một vị vua - triết gia, nhà văn, nhạc sĩ, nhà bảo trợ của khoa học và nghệ thuật; là một vị vua huy hoàng không kém vua Louis XIV của Pháp, ông cũng đồng thời là vị vua theo chủ nghĩa Khắc Kỷ.[134][135][136] Với tư cách là một nhạc sĩ tài năng, ông thường chơi thổi sáo, ngay cả lúc chinh chiến.[137] Là bạn thân đồng thời là độc giả của Voltaire, ông được gọi là "Friedrich Độc đáo", ông có vốn kiến thức uyên thâm, do suốt đời, ông rất thích đọc sách, và đam mê những tác phẩm của Fénelon, Descartes, Molière, Pierre Bayle, Boileau, Bossuet, Corneile, Racine, John Locke, Wolff, Gottfried Leibniz, Cicero, Julius Caesar, Lucian, Horace, Plutarch,v.v... và hàng trăm tác gia khác.[138] Tuy có lúc tình bạn giữa nhà vua và Voltaire bị rạn nứt (1753), ông hồi phục lại qua những lá thư hết lời ca ngợi đại văn hào kiệt xuất này.[139] Tuy là vị vua - chiến binh vĩ đại nhất của nước Phổ, ông cũng thể hiện niềm yêu hòa bình.[140] Ngay từ năm 1745, sau chiến thắng trong hai cuộc chiến tranh Silesia, người chiến binh tham vọng này tuyên bố sẽ không đẩy châu Âu vào chiến tranh nữa.[49] Vào năm 1749, ông phá tan tành một âm mưu gây chiến tranh Kế vị Thụy Điển của Nữ hoàng Nga Elizaveta Petrovna, nhờ vào phản ứng quyết đoán và năng nổ của ông.[141] Giữa lúc cuộc Chiến tranh Kế vị Áo còn tiếp tục kéo dài cho đến năm 1748, với toàn thể các nước đều kiệt quệ, ông trị vì đất nước thái bình thịnh trị, trở thành một vị Quân vương sáng suốt, hiếu hòa và nhân đạo chủ nghĩa, bước vào thời đại hoàng kim của ông trong cung điện Sanssouci, nơi ông trở thành vô cùng gần gũi với nhân đạo chủ nghĩa và được mệnh danh là "Nhà triết học của khu Sanssouci".[49][142] Đây là một công trình kiến trúc barôc do một người bạn hữu của nhà vua xây dựng.[143] Cuộc Chiến tranh Bảy năm cũng hoàn toàn là một cuộc chiến tranh bảo vệ lãnh thổ và địa vị cường quốc của nước Phổ: Những nỗ lực, hy sinh và những chiến công anh hùng của ông đã mang lại niềm tự hào cho toàn thể dân tộc Đức về sự suy yếu của nước Pháp hùng mạnh, cũng như sức mạnh và tầm ảnh hưởng của nước Phổ vang xa với chiến thắng trong cuộc chiến tranh này (1763). Giữ cuộc chiến tranh, và sau chiến thắng trong cuộc chiến tranh Bảy năm, ông vẫn tiếp tục lao đầu vào nghiên cứu các tác phẩm triết học, thơ ca, sử học, ví dụ như triết học Khắc Kỷ mà ông đam mê.[144] Sau những năm tháng huy hoàng, trước khi mất, ông vẫn còn yêu thích cái nắng.[145]

Không những là một ông vua cần cù siêng năng, ông còn đam mê âm nhạc.[146] Là vị vua dẫn dắt nền văn hóa đồ sộ của nước nhà trở nên tiến bộ hơn, ông ví von mình với Moses trên bán đảo Sinai, và ông cũng giống như Moses vậy.[147][148] Do văn võ song toàn, ông được xem là vị vua vĩ đại hơn cả Napoléon.[149]

Chúng ta đang gần như quên lãng một nước Phổ làm gương cho không ít các nước khác. Nước Nhật Bản là một trong số đó, họ noi theo nước Phổ, nên thỉnh thoảng gọi là "Vương quốc Phổ của Á châu".
— Nis Petersen, chuyên gia về vua Friedrich II Đại Đế, phụ trách bộ môn Lịch sử Trường Cao đẳng Quốc gia Jersey[150]

Là một Quân vương độc đoán, vị vua vĩ đại Friedrich II Đại Đế hạn chế uy quyền của Thủ tướng Chính phủ Phổ là Bá tước Karl-Wilhelm Finck von Finckenstein - người làm quan đến cuối đời ông và luôn trung thành với ông.[151][152] Ông đề ra bộ luật dân sự tổng quát, xóa bỏ hình thức tra tấn, thiết lập nguyên tắc Hoàng gia không can thiệp vào những vấn đề tư pháp. Ông cũng sáng lập hệ thống giáo dục "trung học" nâng cao, tiền thân của hệ thống các trường Grammar School ngày nay ở Đức, đào tạo những học sinh giỏi tương lai cho các trường đại học. Ông cũng biến kinh đô Berlin thành trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự, giáo dục trên tòan cõi Phổ và cả Châu Âu.[52] Ông còn tiến đánh Hoàng đế Áo là Joseph II trong cuộc Chiến tranh Kế vị Bayern (1778 - 1779), để buộc Hoàng đế Joseph II phải từ bỏ âm mưu xâm chiếm xứ Bayern. Hiệp định Teschen (1779) là một thắng lợi của ông, nước Áo phải từ bỏ xứ Bayern.[153] Bước vào năm 1780, người chiến binh già này trở thành một trong những nhân vật duy nhất có tầm vóc anh hùng trên chính trường Âu châu.[154]

Sau đó, vào năm 73 tuổi, ông lại còn đánh bại một âm mưu chiếm lĩnh xứ Bayern của liên minh Áo - Nga qua việc thiết lập "Liên minh các Vương hầu" (1785) thắng lợi, tiếp tục thể hiện vai trò cường quốc của Vương quốc Phổ.[155][156][157][158][159] "Liên minh các Vương hầu" cũng là cống hiến cuối cùng của nhà vua nước Phổ đối với nền chính trị châu Âu và cả thế giới, đỉnh cao của những chiến thắng mà ông đạt được trong suốt cuộc đời ông, là một chiến thắng lừng lẫy đưa Vương quốc Phổ thoát khỏi sự đe dọa nguy hiểm nhất trong lúc đó. nâng cao thanh thế của nước Phổ.[51][160][161][162] Là minh chủ của "Liên minh các Vương hầu", đây là lần đầu tiên nước Phổ hòng thống nhất các vua chư hầu người Đức thành một Đế chế Đức do Quốc vương nước Phổ thống trị.[163] Lại một lần nữa, ông vươn lên thành vị quan thầy của những ai chống lại những âm mưu của Hoàng đế trong Đế quốc La Mã Thần thánh.[164] Tuy say mê văn hóa Pháp, vị vua vĩ đại này trở thành một vị anh hùng dân tộc của nước Đức vì những chiến thắng đáng nhớ của ông trước các đạo quân xâm lược đất Đức.[165] Hoàng đế Joseph II phải bỏ cuộc, và việc thành lập Liên minh cho thấy vua Friedrich II Đại Đế - kẻ hủy diệt vĩ đại của Đế quốc La Mã Thần thánh[166] - trầm mình trong ánh nắng hoàng hôn chói lọi của cuộc đời của một vị anh hùng dân tộc Đại Đức.[154] Trước đây, Hoàng đế Joseph II đã từng thăm viếng ông và ca ngợi vị anh hùng này rất nhiều.[167]

"Tân Hoàng cung" thể hiện sự oai hùng và thịnh vượng của ông vua hùng mạnh Friedrich II Đại Đế, được ông xây dựng từ năm 1763 đến năm 1769, sau cuộc Chiến tranh Bảy năm. Nhưng nhờ thiên tài quân sự của ông, ông đã bảo vệ nước Phổ, đánh bại liên quân Áo, Nga, Pháp, v.v... và kết thúc chiến tranh với 1 nước Phổ hùng mạnh hơn trước hẳn.[168]

Dưới triều đại huy hoàng của ông, nước Phổ lên tới tột đỉnh hoàng kim.[169][170] Với triều đại trị vì lâu dài đến 46 năm, ông đã mở mang lãnh thổ nước Phổ, quốc gia hùng mạnh này rộng lên gấp đôi.[43][171] Ông đã đề xướng nhiều chính sách về nội trị, quân sự và ngoại giao đã truyền cảm hứng không nhỏ cho chủ nghĩa dân tộc, cũng như chủ nghĩa quân phiệt Phổ.[43] Một năm sau thắng lợi với "Liên minh các Vương hầu", ông vua - chiến binh Friedrich II Đại Đế - vị minh chủ của Liên minh này - ngã bệnh qua đời (1786),[155] để lại một nước Phổ hùng mạnh, sánh vai với Áo trong việc thống trị vùng Trung Âu. Trong suốt đời, ông luôn thể hiện một vị vua kỷ cương khắt khe, kỷ cương với cả bản thân mình, và là "một thiên tài đích thực xuất sắc nhất đã lên kế vị ngai vàng vào thời kỳ cận đại" - theo nhận định của nhà sử học người Anh là John Dalberg-Acton, Nam tước Acton thứ nhất (Huân tước Acton).[172][173] Khi ông lên nối ngôi, nước Phổ là một nước yếu nhất trong các cường quốc châu Âu, nhưng với ông, nước Phổ sánh vai với mọi cường quốc trên toàn cõi châu Âu - đây là công lớn của ông.[174] Chiến lược và những chiến thắng của người chiến binh vĩ đại xưa trước liên quân chống Phổ trong cuộc Chiến tranh Bảy năm, tài năng của ông và bộ máy Chính phủ Phổ, sẽ còn được Hoàng đế Pháp Napoléon Bonaparte, đại thi hào người Đức Johann Wolfgang von Goethe, thi hào người Đức Christian Friedrich Daniel Schubart, nhà chính trị tự do chủ nghĩa nước Phổ Heinrich Friedrich Karl vom und zum Stein, Quốc trưởng Đức Quốc xã Adolf Hitler phải thán phục.[60][86][87][175][176][177][178] Đương thời, các chính sách của vua Friedrich II Đại Đế và Chính phủ Phổ cũng luôn được vua xứ Torino thán phục.[179][180] Là vị vua thắng trận trong mọi cuộc chiến tranh, ông được xem là một vị vua giỏi hơn cả vua Louis XIV và các vị vua nhà Bourbon của Pháp. Khác với vua Louis XIV, ông nói:[4]

Trẫm là công bộc đầu tiên của Quốc gia.
— Friedrich II Đại Đế

Sau khi thành công trong cuộc chia cắt Ba Lan lần thứ nhất (1772), vua Friedrich II Đại Đế - "nhân vật dẫn dắt của thế kỷ ông"[181] - nhận thấy phần đất Ba Lan mà ông chiếm được đã lâm vào hỗn loạn nghiêm trọng. Ông thân hành thị sát khắp các vùng đất này, và xóa tan tình trạng này. Tuy Triều đình Phổ thống trị hà khác, ông đã mang lại cho phần đất này một cuộc sống tương đối phồn vinh.[117] Có nhiều giai thoại nói về ông.[182] Sự mến mộ ông trở thành di sản lâu dài nhất của phong trào yêu nước Phổ. Sau khi ông qua đời vào năm 1786, nền văn hóa Friedrich ăn sâu vào nhân dân Phổ, với lòng yêu quý nhà vua cực kỳ mãnh liệt. Ông ngự trị trên ngai cao trong suốt 46 năm - gần lâu bằng vị tiên liệt hiển hách của ông - "Tuyển hầu tước vĩ đại". "Friedrich Độc đáo" - một Quân vương đầy nghị lực và tài hoa, đã tự mình quyết chiếm tỉnh Silesia đã làm mê hoặc những người đương thời, và lôi cuốn những nhà sử học. Biết bao nhiêu người tưởng niệm vị vua quá cố, và nhiều nhà xuất bản cũng ca ngợi ông.[46] Một tác phẩm ca ngợi ông thành công nhất, và nổi trội nhất là bản tóm tắt của nhà văn Friedrich Nicolai - một tác gia lừng danh của trào lưu Khai sáng tại chốn kinh kỳ Berlin. Ông là một trong số những thần dân Phổ còn sống sót cho đến cuối thập niên 1780, đối với họ, Quốc vương Friedrich II Đại Đế có lẽ luôn luôn ngự trên ngai cao. Ông là nhân chứng của cuộc Chiến tranh Bảy năm và công cuộc tái thiết đất nước của nhà vua sau năm 1763, và suy ngẫm về vị vua vinh quang, ông cho rằng, là để "học hỏi một nhân vật đúng đắn của Tổ quốc của một ai đó".[183]

Với vua Friedrich II Đại Đế, một cường quốc Kháng Cách hùng mạnh của người Đức trỗi dậy mạnh mẽ, nên trong cuộc Chiến tranh Bảy năm, Giáo hoàng Vatican đã thể hiện thái độ thù địch với nước Phổ.[184] Thành công của vua Phổ là thất bại thảm hại nhất của Toà Thánh Rôma kể từ thời Thánh Martin Luther.[100] Vào năm 1786, nước Phổ là quốc gia đông dân thứ 13, rộng lớn thứ 10 nhưng có Quân đội đông đảo thứ ba trên toàn cõi châu Âu. Chính nhờ một lực lượng Quân đội tinh nhuệ mà vua Friedrich II Đại Đế vẫn luôn giữ được thế mạnh của mình dù liên minh giữa ông với các cường quốc khác (Ví dụ: Nga) thường tan rã. Quân đội Phổ hùng mạnh đến mức mà một viên Sĩ quan phụ tá của nhà vua trong cuộc Chiến tranh Bảy năm là Georg Heinrich Berenhost phải để đời một câu nói đáng nhớ:[185]

Nền quân chủ Phổ không phải là một Quốc gia có Quân đội, nhưng là một Quân đội có Quốc gia. Đất nước Phổ thực chất chỉ là nơi cắm trại của toàn quân.
— Georg Heinrich Berenhost

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Phổ_(quốc_gia) http://www.amazon.com/History-Modern-Germany-Hajo-... http://www.amazon.com/Medieval-Germany-Encyclopedi... http://www.amazon.com/Rise-Brandenburg-Prussia-Lan... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/218058/F... http://books.google.com/?id=qsBco40rMPcC http://books.google.com/books?id=-1IEAAAAMBAJ&lpg=... http://www.heritage-history.com/www/heritage.php?D... http://www.heritage-history.com/www/heritage.php?D... http://www.heritage-history.com/www/heritage.php?D... http://bpkgate.picturemaxx.com/index.php?language=...